Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Sơ lược về Kinh lạc và Huyệt vị

Kinh lạc (gồm 2 bộ phận chính là kinh mạch và lạc mạch) là con đường vận hành chủ yếu của khí, huyết, tân, dịch. Trong kinh mạch lại được chia ra làm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có 12 kinh, tả hữu đối xứng gọi là thủ túc âm tam dương kinh, tương thông trực tiếp với tạng phủ,thuộc ở tạng thì gọi là âm kinh, thuộc ở phủ thì gọi là dương kinh, mười hai kinh bao gồm: thủ thái âm phế kinh, thủ thái dương đại trường kinh, túc dương minh vị kinh, túc thái âm tỳ kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, thủ thiếu âm tiểu trường kinh, túc thái dương bàng quang kinh, túc thiếu âm thận kinh, thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh, túc thiếu dương đảm kinh, túc thiếu âm can kinh. Trong đó thủ tam tiêu kinh từ ngực đến tay, giao với thủ tam dương kinh; thủ tam âm kinh từ tay đến đầu, giao với túc tam dương kinh, từ đầu đến chân giao với túc tam âm kinh; túc tam âm kinh giao từ chân đến ngực giao với thủ tam âm kinh; kinh lạc bên trong thì thông với tạng phủ, bên ngoài thì thông với tứ chi thất khiếu, kết cấu liên hợp tuần hoàn, thông âm dương dẫn khí huyết, dưỡng tạng phủ. kinh lạc hoạt động bình thường thì âm dương cân bằng, khí huyết thông sướng, thân thể khoẻ mạnh, ngược lại thì trăm bệnh sẽ phát sinh.
* Về kì kinh có tám mạch hợp xưng là "kỳ kinh bát mạch" gồm đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đới mạch,âm nghiêu mạch, dương nghiêu mạch, âm duy mạch, dương duy mạch.
Kì kinh bát mạch có tương quan trực tiếp tới tạng phủ.

* Khí huyết vận hành theo mỗi kinh lạc qua một hệ thống các điểm mẫn cảm mà thông tới các bộ phận. Điểm mẫn cảm ấy gọi là huyệt vị. Những huyệt này nếu bị tác động xẽ gây ra cản giác đau đớn, tê liệt, sung sướng...
Huyệt vị không rời kinh lạc, kinh lạc quyết định huyệt vị...

* Mối quan hệ giữa thời khắc với sự vận hành của khí huyết qua 12 kinh mạch như sau:
- Giờ tí (23h-1h)khí huyết vận hành ở kinh đảm.
- Giờ sửu (1h-3h) khí huyết vận hành ở kinh can.
- Giờ dần (3h-5h)khí huyết vận hành ở kinh phế.
- Giờ mão (5h-7h)khí huyết vận hành ở kinh đại trường.
- Giờ thìn (7h-9h)khí huyết vận hành ở kinh vị.
- Giờ tị (9h-11h)khí huyết vận hành ở kinh tỳ.
- Giờ ngọ (11h- 13h)khí huyết vận hành ở kinh tâm.
- Giờ mùi (13h-15h)khí huyết vận hành ở kinh tửu trường.
- Giờ thân (15h-17h)khí huyết vận hành ở kinh bàng quang.
- Giờ dậu (17h- 19h)khí huyết vận hành ở kinh thận.
- Giờ tuất (19h-21h)khí huyết vận hành ở kinh tâm bào.
- Giờ hợi (21h-23h)khí huyết vận hành ở kinh tam tiêu.

VÕ THUẬT VÀ BỮA ĂN HÀNG NGÀY

Một hôm, sau trận đấu kịch liệt, anh B… vào trong nhà, hơi thở hổn hển, leo lên bàn bóng nằm sải tay, mồ hôi ra như tắm, mặt mày xanh lét, hơi thở hồng hộc, nói với tôi rằng “Sao kỳ này mệt quá?”. Một chút sau, nghe trong người rạo rực khó chịu, anh B… ra sau nôn mửa rất nhiều.

Mửa xong, mặt mày còn xanh, nhưng anh thấy trong mình đã khỏe, mắt đã tỏ lại như thường, mồ hôi khô ngay, anh B… bước vô thay y phục và xin phép đi về.

Rõ lại, trước khi vào sân tập, anh B… đã ăn cơm chiều.

Tại sao bộ tiêu hóa của anh B… không làm việc?

Nếu ta bắt 2 con chó bằng nhau, cho ăn no, rồi để một con nằm yên, còn một con bắt đi săn trong 2 giờ đồng hồ. Chừng về, nếu ta mổ bụng hết 2 con thú này thì ta sẽ thấy con ở nhà bao tử trống rỗng, vì thức ăn đã tiêu hết, trái lại con chó đi săn, bao tử còn đầy.

Thí dụ này cùng chuyện đã xảy ra cho anh B… cũng đồng một ý nghĩa. Vì sự tiêu hóa, muốn cho được hoàn toàn thì phải có vài điều kiện cần thiết, phải đầy đủ hay ít nữa phải có điều kiện sau đây:
“Bao tử tự nhiên co bóp đều, từ từ đưa thức ăn từ đầu lớn sang đầu nhỏ, rồi từ đó theo mé bao tử trở lại cho thức ăn trộn với các chất nước của bao tử đã tạo ra, rồi dần dần đưa qua ruột non. Sự vận động của bao tử thật nhẹ nhàng. Ở đầu lớn là chỗ nhẹ hơn hết, ta có thể so sánh nó với sức mạnh của 2-3 phân nước, còn đầu nhỏ có thể tới 50 phân nước”.

Bao tử chỉ là một bắp thịt tròn mà rỗng; cũng như các bắp thịt khác, trừ khi nào im nghỉ thì thôi, còn khi nào làm việc thì lại cần có máu nhiều mới hoạt động mạnh được.
Vì vậy nên sau bữa ăn, ta thường nghe tim ta đập mau hơn, tay chân ta nóng hơn, nếu trong khi đó ta cử động quá mạnh như chạy đá bong, chơi cầu hoặc đấu võ, máu huyết trong mình phải chạy ra phục vụ cho các bắp thịt đang hoạt động nhiều, tất nhiên là bớt máu ở bao tử, làm cho bao tử ta không đủ sức để bóp các thức ăn mà nó nhận được. Do vậy, nên khi trúng vào hoàn cảnh anh B… và lúc mửa ra được, bao tử trống, khỏi co bóp nữa, thì thấy dễ chịu ngay.

Trước khi tập luyện, anh em võ sinh hoặc những nhà thể thao không nên ăn gì cả; nếu cần, uống một ít nước đường là tốt hơn hết.

Bác sĩ NGUYỄN TẤN LUNG

DỊCH CÂN KINH BIẾN NGƯỜI YẾU THÀNH KHỎE

Tương truyền, kinh này xuất phát từ chùa Thiếu Lâm (Trung Quốc), là công phu do Đạt Ma sư tổ truyền dạy nhằm giúp chư tăng có đủ sức khỏe để tu tập giáo pháp. Dịch cân kinh giúp chuyển đổi gân cốt và cơ bắp từ suy nhược thành sung mãn.

Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch Cân Kinh được gọi là phất thủ liệu pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…

Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng thẳng, hai chân dang ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt vào mặt đất, hậu môn nhíu lại, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, tâm ý hướng về Đan Điền (dưới rốn khoảng 3 phân).

Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh tay hơi cong ở khuỷu. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào. Dùng lực vẫy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm và thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía trước, đồng thời với hít vào. Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1.500 cái trở lên.
Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường, tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập.

Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau tạo nên. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau, nhưng phải luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không gồng sức.

Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả phất thủ liệu pháp bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván, vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ.

Cơ chế tác động của phất thủ liệu pháp

Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Phất thủ liệu pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng phất thủ liệu pháp.

Theo quan điểm của y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ có quan hệ giao hòa thông qua hô hấp. Hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng kết luận: “Lực vũ trụ nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót”. Những động tác của phất thủ liệu pháp tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này đối với việc chữa bệnh và tăng cường nội khí.

Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay kích hoạt huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu và Đại Chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh dương. Bách Hội và Đại Chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh dương và mạch Đốc.

Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường Cường và Hội Âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng Tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn Bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.

Theo học thuyết Kinh Lạc, dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực dương sinh âm và Cực âm sinh dương.

Phất thủ liệu pháp có tác dụng cân bằng âm dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí dương thường thừa mà khí âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). Phất thủ liệu pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) - biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống.

Phất thủ liệu pháp cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.

Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương.

Tập phất thủ liệu pháp có gây phản ứng nguy hiểm gì không?

Phất thủ liệu pháp có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.

Do không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. Phất thủ liệu pháp tác động kích thích đồng thời các huyệt Bách Hội, Hội Âm và Trường Cường. Do đó, Bách Hội và Hội Âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ trường cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa âm và dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.

Phất thủ liệu pháp tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý quán chiếu Đan Điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma.

Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn làm nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra sự thông nhau giữa hai bể khí âm và dương. Sự tương thông này giúp nội khí tuần hoàn trong thân người, điều hòa âm dương và sinh lực giữa lục phủ ngũ tạng.

Lực pháp trong võ thuật


Lực có nghĩa là sức lực, sức mạnh tiềm ẩn bên trong cơ thể. Khái niệm về lực theo khoa học vật lý có phần rõ ràng dễ hiểu hơn khái niệm về lực trong võ thuật. Các môn phái võ thuật cổ truyền Đông Phương, dù cương hay nhu, nội gia hay ngoại gia quyền, muốn sử dụng chiêu thức có hiệu quả tất cả đều phải dùng lực. Thuật ngữ diễn tả cho khái niệm lực ấy trong võ thuật gọi là “kình”. Kình thường gắn liền với nhiều huyền thoại võ công của các cao thủ bởi tính cách hiệu quả kỳ bí của nó.

Võ Bình Định

Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cũng biết múa roi, đi quyền
Võ đã thấm vào máu của mỗi người dân Bình Định. Không hoa hòe, lả lướt như những dòng võ khác, võ Bình định thật giản dị, mộc mạc như chính con người Bình Định vậy! Giản dị là thế nhưng võ Bình Định vẫn thật thâm thúy, không kém phần hiệu quả và diễn tả được hồn võ của dân tộc.

Võ Bình Định đã gắn liền với những trang sử oai hùng của ông cha ta trong công cuộc đánh giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước mà đỉnh cao là triều đại Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Vì vậy, vượt lên trên tính chất thể thao thông thường, võ Bình Định trở thành một di sản phi vật thể vô cùng quý giá cần được bảo tồn và phát triển. Với tâm nguyện đó, bằng tất cả sự nhiệt thành và những kiến thức võ thuật tích lũy được do các danh sư tận tình chỉ bảo, chúng tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc gìn giữ, bảo tồn và phát triển võ Bình Định.
Nội dung chính trong trang vobinhdinh.vn cũng như các nội dung được hướng dẫn tại các câu lạc bộ bao gồm:
- Quyền An Thái của cố võ sư Diệp Trường Phát sáng lập.
- Roi Thuận Truyền của cố võ sư Hồ Ngạnh sáng lập.
- Một số bài võ nổi tiếng của dòng võ Tây Sơn, võ nhà Chùa và của các võ nhân…
- Kỹ thuật đối kháng tự vệ, kỹ thuật đối kháng đấu đài.
Xin kính tri ân các thầy Tổ! xin cảm ơn các hảo huynh đệ đã cùng tôi tập luyện và chia sẻ kiến thức võ thuật trong suốt thời gian qua. Nguyện đem tất cả khả năng và tâm huyết để hướng dẫn những thế hệ tiếp nối.
Nào các bạn hãy chung tay gìn giữ và phát triển võ Bình Định!